Câu hỏi: Lơn 60kg có hiện tượng sốt, sau khi tiêm hạ sốt thì lợn bị co giật. sùi bọt mép và chết. Chuyên gia địa phương đoán là bệnh giả dại. Xin hỏi chương trình có đúng không hay bệnh gì khác?

Người hỏi: Vũ trọng hiệp

Email: hiepvutrong2@yahoo.com - Điện thoại: 01695702209

Địa chỉ: Binh long vo nhai hưng yên

Trả lời

Chào bạn!

Để chẩn đoán bệnh cần quan tâm đến triệu chứng, bệnh tích. Tuy nhiên, để chính xác thực hiện nhiều xét nghiệm mới kết luận được.

Chúng tôi giới thiệu bạn tham khảo:

Bệnh giả dại hay còn gọi là bệnh AUJESZKY( Morbus Aujeszky) là một bênh truyền nhiễm của lợn xảy ra ở dạng quá cấp tính với tỷ lệ chết cao, đôi khi không có triệu chứng lâm sàng đặc biệt hoặc xảy ra trệu chứng thần kinh ở lợn cai sữa duới 3 tháng tuổi, ở lợn trưởng thành xảy ra dạng giống bênh cúm với triệu chứng viêm phổi.

1. Nguyên nhân

Virus Giả dại chủ yếu chỉ gây bệnh cho lợn. Đôi khi nó được lây truyền một cách tự nhiên từ lợn sang một số cá thể gia súc khác như ngựa, chó, mèo, gây ra các triệu chứng thần kinh và chết nhanh chóng. Tuy vậy, những con vật này là vật chủ cuối và thường không lây lan sang cá thể nào khác. Virus Giả dại chưa từng được thấy có khả năng gây bệnh trên người.

 2. Triệu chứng lâm sàng

Dấu hiệu đầu tiên thường là một vài heo nái sảy thai. Bệnh có thể lây cho chó mèo và chúng cũng có thể biểu hiện triệu chứng thần kinh cấp tính (ngứa như điên) và chết.

Lợn con sơ sinh

- Bệnh gây triệu chứng cấp tính và tử vong. Bằng chứng đầu tiên là lông xù, ngừng bú và trong vòng 24 giờ. Chúng run rẩy, mất khả năng điều phối vận động, chảy nước miếng quá mức và co giật, đảo mắt liên tục và thường phát ra những tiếng kêu the thé lớn.

- Lợn con theo mẹ có thể cho thấy một loạt các triệu chứng lâm sàng như đi bộ vòng tròn, ngồi kiểu chó, hoặc nằm nghiêng chân đạp như chèo thuyền. Một số có thể bị nôn mửa hoặc tiêu chảy. Chúng chết trong vòng 24-36 giờ sau khi bắt đầu có dấu hiệu thần kinh. Tỷ lệ tử vong ở lợn con có thể rất cao, gần 100%. Những lứa tiếp theo có thể được sinh ra với lợn con yếu và có thể bắt đầu có triệu chứng thần kinh ngay khi chúng được sinh ra.

Lợn cai sữa

- Heo cai sữa càng nhỏ tuổi hơn càng biểu hiện bệnh nặng hơn nhưng số lợn có biểu hiện thần kinh và chết thì thấp hơn so với trường hợp bệnh trên heo con theo mẹ. Nôn mửa và tiêu chảy đôi khi xảy ra. Nếu virus là một chủng hướng phổi thì sẽ gây viêm phổi (gây hắt hơi, chảy nước mũi, hơi thở nặng nề và ho) cùng với các dấu hiệu thần kinh.

- Khi nhiễm virus Giả dại, trại heo có xu hướng bùng phát dịch viêm phổi do Mycoplasma hyopneumoniae cũng như có thể xảy ra nhiễm khuẩn thứ phát với Pasteurella multocidaActinobacillus pleuropneumoniae.

- Heo con cai sữa bị bệnh cũng có thể bị sốt cao 41-42ºC. Hầu hết sẽ phục hồi hoàn toàn trong vòng 5-10 ngày nhưng một số có thể bị còi cọc và rất khó phát triển.

Heo lứa và heo vỗ béo

- Các dấu hiệu sớm nhất ở đối tượng này là ủ rũ, bỏ ăn, nhìn chằm chằm và sốt 41-42ºC. Triệu chứng hô hấp có thể tương tự như mô tả ở trên cho lợn cai sữa (gây hắt hơi, chảy nước mũi, hơi thở nặng nề và ho). Tương đối ít các dấu hiệu thần kinh hoặc có nhưng ở thể rất nhẹ (ví dụ như run cơ).

- Mặc dù tất cả, hoặc gần như tất cả heo lứa và heo vỗ béo trong trại có thể cùng bị nhiễm, nhưng chúng nhanh chóng phục hồi trong vòng 5-6 ngày và bắt đầu tăng trưởng trở lại bình thường. Tỷ lệ tử vong thường là dưới 2%.

 Các triệu chứng lâm sàng khác

Có những biểu hiện khác có thể được quan sát thấy trong bệnh giả dại, một phần vì sự khác biệt về độc lực giữa các chủng virus khác nhau và một phần là do tình trạng miễn dịch khác nhau của mỗi đàn lợn. Nếu virus là một trong những chủng có độc lực nhẹ, đàn heo có thể có huyết thanh dương tính mà không có triệu chứng hay thiệt hại gì nghiêm trọng. Tất cả các chủng virus đều có ái lực với hệ thần kinh nên đều có ít nhiều gây triệu chứng thần kinh. Một số chủng còn có thêm tính hướng đường hô hấp nên gây viêm phổi.

 3. Bệnh tích

Virus Giả dại phá hại hệ thống thần kinh của heo nhưng tổn thương này chỉ có thể được nhìn thấy qua kính hiển vi.

Các tổn thương đại thể có thể được nhìn thấy bằng mắt thường là những bệnh tích trong phổi, khí quản, phế quản, các vùng hoại tử trên hạch hạnh nhân và các cơ quan trong xoang bụng. Nhưng rất khó để phân biệt tổn thương do virus Giả dại với tổn thương trong những bệnh hô hấp khác như do cúm, dịch tai xanh, Mycoplasma hyopneumoniae, Actinobacillus pleuropneumoniae, hoặc Pasteurella multocida.

 4. Chẩn đoán

Trong các vụ dịch cấp tính nghiêm trọng, một chẩn đoán đáng tin cậy có thể được rút ra chỉ dựa trên các triệu chứng lâm sàng điển hình, đặc biệt là ở lợn con sơ sinh. Chẩn đoán mang tính chắc chắn hơn nữa nếu chó, mèo, trâu bò, ngựa cũng bị ảnh hưởng.

Ngược lại, trong những ổ dịch nhẹ hơn hoặc dịch trong đàn heo lứa hoặc heo vỗ béo, chẩn đoán có thể khó khăn hoặc không thể chẩn đoán bằng triệu chứng lâm sàng. Hơn nữa, khi bệnh xảy ra trên lợn con theo mẹ thì căn bệnh này vẫn có thể dễ dàng bị nhầm lẫn với bệnh tai xanh PRRS. Cả hai bệnh này gây ra sảy thai, heo sơ sinh rất yếu, đẻ non và tỷ lệ tử vong cao nhưng heo con trong dịch tai xanh không có dấu hiệu thần kinh.

Bệnh Giả dại ở heo lứa và heo vỗ béo cũng có thể bị nhầm lẫn với bệnh cúm lợn vì triệu chứng lâm sàng và diễn tiến của bệnh cũng rất giống nhau.

Để xác định chính xác, cần phải kiểm tra trong phòng thí nghiệm. Bệnh phẩm tốt nhất là nguyên con lợn chết nếu có thể. Nếu không thì dùng hạch hạnh nhân hoặc vết phết yết hầu cố định trên phiến kính để dùng trong xét nghiệm kháng thể huỳnh quang nhanh (FAT) và có kết quả trong một vài giờ. Xét nghiệm này là khá đáng tin cậy cho lợn con theo mẹ nhưng ít tin cậy hơn cho heo lứa và heo vỗ béo. Do đó, một kết quả xét nghiệm kháng thể huỳnh quang âm tính trên heo lứa và heo vỗ béo là không đáng tin cậy.

Ở heo lứa và heo vỗ béo, chẩn đoán tốt nhất là phân lập virus từ các mô như não, lá lách và phổi (cần đông lạnh trong khi vận chuyển đến phòng thí nghiệm). Nếu không có lợn chết thì lấy vết phết dịch niêm mạc mũi và bảo quản trong môi trường có kháng sinh trong quá trình vận chuyển đến phòng thí nghiệm. Mẫu máu của lợn trong giai đoạn sớm của bệnh và từ lợn phục hồi sau bệnh có thể được kiểm tra để kiểm chứng sự tăng lên của kháng thể. Phân lập virus được thực hiện trong môi trường nuôi cấy tế bào. Virus tạo ra bệnh lý tế bào và có thể được chứng minh bằng các xét nghiệm kháng thể huỳnh quang.

Ngoài ra, một loạt các xét nghiệm huyết thanh học đã được phát triển để chẩn đoán virus Aujeszky bao gồm cả xét nghiệm kháng thể trung hòa, xét nghiệm ELISA và xét nghiệm ngưng kết latex. ELISA thường là sự sự lựa chọn hàng đầu và cho kết quả khá nhanh chóng.

5. Điều trị

Không có điều trị. Thuốc kháng sinh sẽ ngăn ngừa nhiễm trùng thứ cấp đặc biệt của hệ thống hô hấp và cũng làm giảm thiệt hại do vi khuẩn.

Chúc bạn thành công

Tin xem nhiều

Tài liệu kỹ thuật chăn nuôi thỏ - Phần 5

Phần 5: KỸ THUẬT CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG

I. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH SẢN Ở THỎ CÁI

1. ...

Kỹ thuật nuôi cá lăng vàng

Cá lăng vàng là một trong những loài cá lăng hiện diện ở các thủy vực nước ngọt và lợ ...

Quy trình sản xuất giống cá lăng vàng

1. Thuần dưỡng và nuôi vỗ bố mẹ

1.1 Thuần dưỡng cá làm bố mẹ

Nếu cá bố mẹ có nguồn ...

Kỹ thuật nuôi cá lăng nha thương phẩm

Lăng nha (Mystus wyckiioides) là loài cá nước ngọt, thịt trắng chắc, không xương dăm, mùi vị thơm ngon, giá ...

Kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá lăng chấm

Đặc điểm hình thái cá lăng chấm: Thân dài. Đầu dẹp bằng, thân và đuôi dẹp bên. Có 4 đôi ...

Video xem nhiều

Kỹ thuật bón phân

(Nguồn THVL)

Dưa hấu không hạt - nông nghiệp công nghệ cao

Lâu nay mọi người thường khó chịu khi gặp phải vô số hạt cứng trong ruột dưa hấu. ...