Câu hỏi: Tư vấn cho tôi về cây nho rừng Đặc điểm của cây nho rừng và cách trồng

Người hỏi: Đậu văn Trà

Email: traoanh9091@gmail.com - Điện thoại: 0388663188

Địa chỉ: Nam Đàn Nghệ An

Trả lời

Chào anh Đậu văn Trà. Câu hỏi của Anh Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp, Quản lý khai thác công trình thủy lợi và Nước sạch nông thôn tỉnh Đồng Tháp thông tin như sau:

A: ĐẶC ĐIỂM CỦA CÂY NHO RỪNG

          Nho rừng còn có nhiều tên gọi khác như nho tía, nho long, nho năm góc, đây là một loại trái cây thuộc họ nho, dạng thân leo và thường mọc thành chùm với lá đơn màu xanh có 5 góc, bên trên mặt lá có phủ lớp lông trắng mịn.

          Về hình dáng, nho rừng có kích thước nhỏ hơn hẳn so với những loại nho khác, hơi tròn, vỏ quả dày và có màu đen sẫm. Nho rừng thường có mùi hương rất thơm và mọng nước, khi còn xanh thì sẽ có vị chua nhẹ nhưng khi quả chín sẽ có vị ngọt nhưng hơi chát vô cùng đặc trưng.

          Cây nho rừng thường mọc hoang trong các cánh rừng, tập trung chủ yếu là ở vùng núi phía Tây Bắc, ngoài ra còn xuất hiện ở một số tỉnh miền Trung, miền Nam. Hoa của cây nho rừng thường nở vào tháng 5, tháng 6, đến tháng 7 là cây bắt đầu cho ra trái và thời gian thu hoạch những quả nho rừng chín mọng là vào tháng 9 đến tháng 10.

          B. QUY TRÌNH KỸ THUẬT TRỒNG CÂY NHO RỪNG

I. THỜI VỤ

Trồng vào các tháng 11, 12 và tháng 01 năm sau. Đây là Thời vụ tốt nhất cho cây Nho sinh trưởng phát triển. Tuyệt đối không nên trồng Nho trong vụ mưa (tháng 8, 9) và các tháng nắng nóng (tháng 5, 6) vì cây Nho phát triển rất kém và tỷ lệ chết cao.

II. GIỐNG VÀ BIỆN PHÁP NHÂN GIỐNG NHO

1. Giống Nho

1.1. Giống Nho Red Cardinal (Nho đỏ): Là giống Nho ăn tươi, được trồng nhiều tại Việt Nam, có nhiều ưu điểm: Mã đẹp, dễ vận chuyển, sinh trưởng nhanh, chất lượng khá.

Giống Nho Red Cardinal có ưu điểm hơn các giống khác đó là từ cắt cành đến chín chỉ khoảng 90 ngày, với 1 tháng ngủ nghỉ trước khi cắt lại vụ sau, tổng cộng 4 tháng cho 1 vụ, một năm có thể thu ba vụ, tiêu chuẩn kinh tế quan trọng của người trồng Nho hiện nay.

1.2. Giống Nho NH01-48 (Nho xanh): Là giống Nho ăn tươi, khi chín quả có màu xanh, hạt ít (từ 1 đến 2 hạt/quả), độ đường cao (độ Brix 17-19%, giống Cardinal từ 13-14%), dễ cho bông, năng suất cao và ổn định. Chất lượng của giống này tương đương so với sản phẩm nhập khẩu cùng loại.

1.3. Giống Nho rượu Syrah: Là giống Nho làm ra một số loại rượu nổi tiếng ở phía Bắc thung lũng Rhône. Giống Nho này vỏ dày cho ra những loại rượu có độ tannin cao và có thể nuôi lâu năm.

1.4. Giống Nho Couderc 1613: Là giống Nho gốc ghép có triển vọng được nhập đầu năm 1999. Giống này có sức sống rất cao. Bộ rễ phát triển mạnh, có khả năng kháng tuyến trùng trong đất. Giống này thích nghi được với nhiều chân đất, có khả năng chống chịu rất tốt với điều kiện môi trường bất thuận như đất nhiễm mặn, ẩm ướt hoặc khô hạn. Đặc biệt chúng có khả năng tiếp nhận mắt ghép rất tốt với tỷ lệ ghép sống cao trên 95%.

          1.5. Giống nho rừng: Có nhiều tên gọi khác như nho tía, nho long, nho năm góc, đây là một loại trái cây thuộc họ nho, dạng thân leo và thường mọc thành chùm với lá đơn màu xanh có 5 góc, bên trên mặt lá có phủ lớp lông trắng mịn. Hình dạng trái hơi tròn, vỏ quả dày và có màu đen sẫm. Nho rừng thường có mùi hương rất thơm và mọng nước, khi còn xanh thì sẽ có vị chua nhẹ nhưng khi quả chín sẽ có vị ngọt nhưng hơi chát vô cùng đặc trưng.

2. Biện pháp nhân giống Nho

2.1. Phương pháp giâm cành:

- Chọn cành có đủ độ thành thục (đã hóa gỗ cứng) của vụ trước từ những cây Nho khỏe, không bị bệnh trên các giàn có năng suất cao. Tuổi cành từ 4-12 tháng tuổi đều có thể sử dụng làm hom. Cành từ trên 12 tháng tuổi thì mau ra rễ nhưng ngọn mọc yếu hơn so với cành 4-8 tháng tuổi. Thông thường chọn cành gỗ dài 20-30 cm, đường kính 0,7-0,8 cm (cỡ cây bút chì) để cắt làm hom giâm. Hom có thể được cắt từ 3-5 đốt. Tuy nhiên, hom có 3 đốt cho tỷ lệ ra rễ cao nhất (90,7%) so với cắt 4 đốt (86,1%), 5 đốt (83,3%), 2 đốt (83,3%) và 1 đốt (37%). Hom 5 đốt cho nhiều lá, rễ dài, nhiều rễ (Singh, 1968). Những hom được cắt từ phần giữa đoạn cành gỗ tốt hơn cắt từ những vị trí khác.

- Cách cắt hom: Phía dưới được cắt xiên sát vào đốt, còn phía trên cắt ngang cách đốt 02 cm. Làm như vậy để phía dưới tiếp xúc được với đất nhiều hơn và phần trên đỡ mất nước hơn.

- Cách giâm hom: Hom được giâm vào các bịch nilon (25x20 cm) có đục lổ, chứa hỗn hợp đất, cát thô, tro trấu, mụn xơ dừa, phân hữu cơ hoai mục với tỷ lệ 1/3 đất và 2/3 các chất còn lại với số lượng ngang nhau. Hom được cắm ngập vào bịch tới đốt thứ 2 (hơn 1/3 độ dài hom). Hom giâm xong cần được che mát và tưới nước giữ ẩm. Thời gian ra rễ khoảng 20-40 ngày. Một số nông dân còn cắm hom trực tiếp xuống hầm với 3-4 hom, sau đó nhổ bớt chỉ để lại 1 hom.

- Để tăng tỷ lệ ra rễ, có thể phun các chất điều hòa sinh trưởng như IBA nồng độ 50 ppm, NAA với nồng độ 100 ppm. Đối với các giống gốc ghép khó ra rễ thì dùng liều lượng IBA cao hơn (2.000-2.500 ppm), để nhúng hom trước khi giâm.

2.2. Phương pháp chiết cành:

- Cách chọn cành chiết: Chọn những cành khỏe, có đường kính 0,7-0,8 cm. Những cành bánh tẻ, đang còn xanh, chưa hóa gỗ, được khoảng 2 tháng tuổi sẽ mau ra rễ hơn so với cành đã hóa gỗ.

- Cách chiết: Dùng hỗn hợp đất đã chuẩn bị sẵn (giống phần giâm hom) bó vào cành đã chọn. Khối lượng hỗn hợp đất - phân khoảng 150-200 g/bịch. Sử dụng bịch nilon bó kín để tránh khô đất, trước khi bó phải tưới nước đủ ẩm. Sau khi bó đất xong, buộc dây treo phần chiết lên giàn và bóc vỏ ngay dưới chỗ đất vừa bó, kích thích cho cây ra rễ nhanh.

- Phương pháp này chỉ nên áp dụng cho trồng dặm và diện tích nhỏ.

2.3. Phương pháp ghép:

- Có 2 cách ghép thường được áp dụng là ghép mắt và ghép nêm. Mục đích chính của việc ghép là để lợi dụng những đặc tính tốt của gốc ghép mà giống Nho cần trồng không có như bộ rễ khỏe, chịu được điều kiện thời tiết bất thuận, kháng bệnh tốt,…

- Cách chọn cành ghép cũng tương tự như chọn cành giâm đã nêu ở trên. Chủ yếu là xác định được giống tốt để làm gốc ghép.

- Cách ghép: Khi cây Nho dại được 10-12 tuần (nếu chăm sóc tốt) thì có thể tiến hành ghép. Đối với cành ghép nên chọn cành có tuổi và đường kính tương đương, chú ý để nâng cao tỷ lệ sống trước khi chuẩn bị lấy mắt ghép cần ngắt ngọn cành định lấy mắt ghép vài ngày khi thấy các mầm ngủ cương to nhưng chưa bung thì tiến hành lấy mắt ghép  để ghép theo phương pháp ghép nêm. Sau khi chồi phát triển và cố định được thì tiến hành rạch bỏ dây bó bằng nilon để cho đoạn thân tại vị trí ghép phát triển dễ dàng.

III. KỸ THUẬT TRỒNG, CHĂM SÓC

1. Chuẩn bị đất

- Đất trồng Nho: Đất tốt nhất để trồng Nho là đất có thành phần cát nhẹ và thịt pha cát, đất tơi, dễ làm, đất có kết cấu nhẹ, thoáng và xốp. Mực nước ngầm không nên cao quá 02 m kể từ mặt đất. Đất phải có tầng canh tác sâu và đồng đều. Cây Nho không thể sinh trưởng trên đất quá ướt vì bộ rễ kém sinh trưởng do thiếu không khí.

- Hiện nay, Nho ở tỉnh Ninh Thuận đang được trồng trên nhiều loại đất khác nhau từ đất cát thô ven biển đến đất thịt đỏ. Trên đất cát thô nhờ thoáng khí nên Nho có khả năng ra rễ nhanh, cây sinh trưởng mạnh trong vòng 3 năm đầu khi giàn cành chưa nhiều. Sau đó cây yếu đi do khả năng cung cấp dinh dưỡng của đất kém, nên phải chú ý đến việc cung cấp dinh dưỡng cho Nho. Đất thịt (35-40% cát, 35-40% bùn và 10-25% sét) và đất thịt pha cát cho năng suất Nho cao nhất.

- Cây Nho không thể chịu úng lâu vì vậy nên trồng ở đất cao, thoát nước tốt, tầng đất mặt dày, không nên trồng trên ruộng lúa trũng thoát nước kém.

- Thiết kế ruộng phải bằng phẳng, có mương tưới và tiêu thuận lợi, gần nguồn nước mương càng tốt.

- Cày sâu 50-60 cm phá tầng đế cày, bón phân hữu cơ 2-3 tấn/sào, 100 kg Super Lân để tạo điều kiện cho đất thoáng khí giúp bộ rễ ăn sâu rộng, thoát nước tốt.

- Khi làm giàn nên tách rời nhau để cho vườn Nho thông thoáng hạn chế sâu bệnh.

2. Kỹ thuật trồng

- Khoảng cách trồng: 2,5x2 m x 1 cây (mật độ 2.000 cây/ha).

- Nếu trồng bằng phương pháp ghép thì trồng gốc ghép trước, chăm sóc tốt thì khoảng 10 tuần là chúng ta có thể ghép được. Bầu được trồng ngang mặt đất chuẩn, khi trồng phải rạch bỏ túi nilon cẩn thận để tránh bể bầu. Trồng xong tưới ngay.

3. Bón phân

3.1. Bón phân cho Nho thời kỳ kiến thiết cơ bản: (tính cho 01 ha/01vụ Nho).

- Thời gian Nho kiến thiết cơ bản kéo dài khoảng 7 tháng. Giai đoạn này khoảng 01 tháng bón phân một lần. Tổng lượng phân hữu cơ sinh học (HCSH) Humix chuyên Nho 4.000 kg/ha, 700 kg/ha NPK 20-20-15/ha. Chia ra các lần bón như sau:

+ Tháng thứ 1: Khi cây Nho đã bén rễ: Bón phân HCSH: 400 kg, 50 kg phân NPK 20-20-15.

+ Tháng thứ 2: Bón phân HCSH: 400 kg, phân NPK 20-20-15: 70 kg.

+ Tháng thứ 3: Bón phân HCSH: 500 kg, phân NPK 20-20-15: 80 kg.

+ Tháng thứ 4: Bón phân HCSH: 500 kg, phân NPK 20-20-15: 100 kg.

+ Tháng thứ 5: Bón phân HCSH: 700 kg, phân NPK 20-20-15: 120 kg.

+ Tháng thứ 6: Bón phân HCSH: 700 kg, phân NPK 20-20-15: 140 kg.

+ Tháng thứ 7: Bón phân HCSH: 800 kg, phân NPK 20-20-15: 140 kg.

- Loại phân khác:

+ Khoảng 1 tháng nên xịt thêm Agrostim 1 lần.

+ Chế phẩm EM pha nồng độ 1/100-1/200 tưới hầm Nho 4-6 lần trong mỗi vụ.

3.2. Bón phân cho Nho thời kỳ kinh doanh: (tính cho 01 ha/01vụ Nho).

- Phân hữu cơ sinh học (HCSH) Humix chuyên Nho: 3.000 kg.

- Phân hóa học: 76 N - 61 P2O5 - 90 K2O + 01 tấn vôi (CaCO3). Tương đương (165 kg Urê, 370 kg Super Lân, 150 kg KCL).

- Đợt 1 (Sau khi thu hoạch xong vụ trước): Bón 01 tấn vôi, 900 kg phân HCSH  Humix, 80 kg Urê, 150 kg Super lân. Bón bằng cách rải đều, sau đó dùng cuốc xới nhẹ chôn vùi xong theo nước ngay. Bón tới đâu xới tới đó, không phơi phân dưới ánh sáng mặt trời.

- Đợt 2 (Trước cắt cành 10-12 ngày): Bón 600 kg phân HCSH  Humix, 110 kg Super Lân, 60 kg KCl. Bón bằng cách cuốc lổ cách nhau khoảng 20 cm, sau đó lấp đất lại tưới nước.

- Đợt 3 (Sau khi đậu trái xong (35-40 ngày sau khi cắt cành): Bón 750 kg phân HCSH  Humix, 65 kg Urê, 110 kg Super Lân, 45 kg KCL. Bón bằng cách cuốc lổ cách nhau khoảng 20 cm, sau đó lấp đất lại tưới nước.

Lưu ý: Nếu thị trường có phân lân Nung chảy thì nên phối hợp với Super lân để bón và mỗi loại 50%, nếu có điều kiện nên thay KCl bằng K2SO4 để tăng thêm chất lượng sản phẩm.

* Các chế phẩm phân bón lá có hiệu quả tốt: EM chăn nuôi, EM hữu cơ, Agrostim, Ultra planta 5C, Ultra planta 5T, K-Humat dùng để hỗ trợ thêm dinh dưỡng cho cây Nho khi cần thiết.

4. Chăm sóc

4.1. Chăm sóc Nho con:

- Làm cỏ, xới xáo: Hầm Nho phải được làm cỏ xới xáo liên tục, làm cho đất thông thoáng tạo điều kiện cho bộ rễ phát triển, nên kết hợp xới lúc bón phân, cứ 15 ngày nên xới một lần (khoảng 2 lứa nước nên xới nhẹ 1 lần)

- Tưới và tiêu nước: Cây Nho trong thời kỳ cây con, tuyệt đối  không được thiếu ẩm, sau khi trồng cần tưới nước giữ ẩm ngay. Thông thường 5-7 ngày tưới một lần, khi mưa tìm mọi cách rút nước ngay.

- Cắm choái: Khi cây Nho cao độ 20-25 cm cần cắm chóai và buộc bằng dây chuối giữ cây Nho khỏi bị gió làm gãy đồng thời tỉa bỏ chồi phụ ở nách lá, tua cuốn để tập trung dinh dưỡng cho cây mau lớn.

- Làm giàn: Hiện nay trên thế giới có rất nhiều kiểu giàn khác nhau. Tuy nhiên ở Ninh Thuận khuyến cáo bà con nông dân vẫn sử dụng kiểu giàn lưới nhưng các giàn tách rời nhau, diện tích mỗi giàn khoảng 500 m2  tuy có tốn kém trụ ban đầu nhưng sẽ có hiệu quả cao trong việc hạn chế sâu bệnh về sau. Về cơ bản là làm sao cho giàn Nho càng thông thoáng càng tốt.

- Tạo cành cấp 1, cấp 2:

+ Khi cây Nho vượt khỏi giàn 30-40 cm có thể tiến hành ngắt ngọn, để cho ra 3 cành cấp 1, những cành yếu  ngắt bỏ. Khi cành cấp 1 dài 100 cm, tiến hành bấm ngọn chừa lại 40 cm để tạo cành cấp 2, trên cành cấp 1 chọn 2-3 mầm khoẻ để tạo cành cấp 2;

+ Đối với giống Nho NH 01-48, cần lưu ý chăm sóc giai đoạn đầu để tạo tán. Nếu cây phát triển tốt thì tạo cành rất nhanh. Nếu cành ốm yếu nhỏ thì vấn đề nhân cành rất chậm làm cho cành cứ nối dài ra mà không phân nhánh được và dẫn đến năng suất rất kém.

3.2. Chăm sóc Nho kinh doanh:

- Làm cỏ xới hầm, phá hầm: Thường làm cỏ xới hầm để giúp đất được thông thoáng. Một năm nên phá hầm 1 lần để tạo bộ rễ mới. Thường tiến hành sau thu hoạch.

- Cắt và rửa cành:

+ Tiến hành cắt cành khi cây Nho đang ở trong tình trạng khỏe (kiểm tra thực địa: Rễ trắng nhiều, ngọn ra lá mới, độ lớn cành và đang hóa gỗ,…);

+ Cắt cành xong phun thuốc rửa cành, để hạn chế mầm bệnh cho vụ sau và thu gom cành, lá đi tiêu hủy.

- Thời vụ cắt cành: Nên cắt vào 2 vụ chính là Đông Xuân và Hè Thu nhưng cũng cần chú ý một số vấn đề Thời vụ sau:

+ Vụ Đông Xuân: Cắt cành tháng 11 đến tháng 12 và thu hoạch vào tháng 2 đến tháng 3. Nếu thời tiết tốt nên cắt sớm để bán Nho tết. Tuy nhiên nhiều năm vào thời điểm này còn mưa nhiều nên phải thận trọng để tránh áp lực của bệnh. Vụ này cho năng suất cao nhất;

+ Vụ Hè Thu: Cắt cành vào khoảng tháng 3, thu hoạch vào tháng 6,7. Trong vụ này chú ý nếu cắt cành muộn khi bông nở gặp điều kiện nắng nóng và gió mạnh, ẩm độ thấp vào tháng 5, 6, 7 dương lịch sẽ gây hiện tượng sáp bông (bông khô). Vụ này chú ý nhiều sâu hại, năng suất khá cao.

- Buộc cành, tỉa mầm nách: Ngay sau khi cắt cành phải buộc và phân chia lại số cành cho rải đều trên giàn, tiến hành loại bỏ thường xuyên những cành yếu. Duy trì mật độ cành vừa phải 10 cành/m2. Khi cành ra chồi tạo cành mới và bông nên tiến hành cột cành 2 lần chấm dứt trước khi bông nở, đồng thời nên loại bỏ mầm nách và tua cuốn để tập trung dinh dưỡng nuôi bông, trái sau này.

IV. PHÒNG TRỪ SINH VẬT GÂY HẠI

Ưu tiên áp dụng Quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) để PHÒNG TRỪ SINH VẬT GÂY HẠI trên cây Nho:

- Biện pháp canh tác:

+ Bón phân cân đối;

+ Làm giàn Nho nên cách ly nhau tạo sự thông thoáng;

+ Vệ sinh đồng ruộng thu dọn tàn dư thực vật, tỉa bỏ trái lá bệnh, chồi nách, chồi yếu đem ra khỏi vườn tiêu hủy. Tuyệt đối không đổ xuống mương nước;

+ Hệ thống thoát nước tốt trong mùa mưa;

+ Khi đang có dịch bệnh xảy ra nên tìm cách hạn chế sự lây lan từ ruộng này sang ruộng khác;

+ Trên một vùng nên tổ chức cùng cắt Nho một lúc sẽ rất thuận lợi cho công tác chăm sóc và hạn chế sâu bệnh lây lan;

+ Thường xuyên loại bỏ cành, chồi nách yếu;

+ Không nên trồng xen một số cây như xoài, ớt, hành, tỏi dưới giàn Nho hoặc gần giàn Nho.

- Sử dụng thuốc sinh học: Ưu tiên sử dụng các loại thuốc sinh học. Hiện nay có khá nhiều loại thuốc sinh học có hiệu quả như: Bacillus thuringiensis var kurstaki,…

- Biện pháp hóa học: Áp dụng biện pháp này khi thật cần thiết với nguyên tắc 5 “không” như sau: Không sử dụng thuốc quá độc; Không sử dụng thuốc lâu phân hủy; Không sử dụng các loại thuốc có hoạt chất sử dụng quá cao; Không dùng quá liều chỉ định; Không sử dụng thuốc trong thời gian cách ly sắp thu hoạch.

1. Sâu hại

1.1. Sâu xanh da láng: (Spodoptera exigua).

* Nhận dạng:

- Thành trùng có kích thước trung bình, thân dài 18-20 mm, sải cánh rộng 30-35 mm, màu nâu xám nhạt, cuối bụng con cái có một chùm lông.

- Trứng được đẻ tập trung vào nửa đêm thành từng ổ, mỗi ổ có hàng trăm trứng. Trên ổ trứng có phủ một lớp lông màu trắng hoặc vàng nhạt.

- Sâu non có màu xanh nhạt, da bóng láng trên lưng có năm sọc, 2 sọc ở mỗi bên hông rất to và đậm, sọc giữa lưng có màu đen xen kẽ màu trắng. Nhộng màu nâu sẫm hay đỏ sẫm thường ở trong đất.

* Tập quán sinh sống và cách gây hại:

- Bướm đẻ trứng ở mặt dưới lá nho, sâu nở ra có màu xanh lá cây tập trung cắn phá quanh ổ. Khi lớn sâu phát tán cắn phá các phần non như đọt lá, chùm hoa, trái non,... Hậu quả làm hạn chế sinh trưởng, giảm năng suất cây trồng.

- Khi nho già, sâu cắn phá làm tàn lụi lá, ảnh hưởng đến năng suất vụ sau. Sâu phát sinh trong điều kiện khô nóng. Tại Ninh Thuận sâu phát triển mạnh từ tháng 1 đến tháng 7. Đây là loại sâu hại rất khó phòng trừ bằng biện pháp hóa học.

* Biện pháp xử lý:

- Làm sạch cỏ ở dưới và chung quanh giàn Nho.

- Dùng tay bắt và giết sâu, giết ổ trứng, ngắt bỏ các lá có sâu mới nở.

- Khi sâu xuất hiện nhiều (sâu tuổi 1, 2 có mật độ trên 50 con/m2) thì ưu tiên dùng các loại thuốc sinh học như: Emamectin benzoate (Avermectin B1a 90 % + Avermectin B1b 10%), ...

- Cần chú ý ở các vùng trồng hành tây cần phải tập trung gom bỏ hay thiêu hủy cọng lá hành có chứa trứng và sâu để tránh lây lan sang cây Nho.

- Khi sâu xuất hiện nhiều (sâu tuổi 1, 2) thì sử dụng luân phiên một số loại thuốc như: Abamectin 20g/l + Matrine 5g/l : 25g/l, Emamectin benzoate 5%,… để phun phòng trừ.

1.2. Nhện đỏ: (Tetranychus sp.).

* Nhận dạng:

- Thành trùng hình bầu dục, thân rất nhỏ khoảng 0,4 mm, thành trùng đực có kích thước nhỏ khoảng 0,3 mm. Toàn thân phủ lông lưa thưa và thường có màu đỏ với đốm đen ở 2 bên thân mình. Nhện có 8 chân, thành trùng cái màu vàng nhạt hay hơi ngả sang màu xanh lá cây. Nhìn xuyên qua cơ thể có thể thấy được hai đốm màu đậm bên trong, đó là nơi chứa thức ăn. Sau khi bắt cặp, thành trùng cái bắt đầu đẻ trứng từ 2-6 ngày, mỗi nhện cái đẻ khoảng 70 trứng.

- Trứng rất nhỏ, hình cầu hoặc hình củ hành, bóng láng và được đẻ sát gân lá ở cả hai mặt lá (thường là được gắn chặt vào mặt dưới của lá, ở những nơi có tơ do nhện tạo ra trong khi di chuyển). Trứng nở sau khoảng 4-5 ngày.

- Ấu trùng nhện đỏ rất giống thành trùng nhưng chỉ có 3 đôi chân. Những ấu trùng thay da 3 lần là con cái, những ấu trùng thay da 2 lần là thành trùng đực. Giai đoạn ấu trùng phát triển từ 5-10 ngày.

- Nhện đỏ hoàn tất một vòng đời từ 20-40 ngày.

* Tập quán sinh sống và cách gây hại:

- Nhện di chuyển rất nhanh và nhả tơ mỏng bao thành một lớp ở mặt dưới lá nên trông lá có màu trắng, do lớp da để lại sau khi lột cùng với bụi và những tạp chất khác.

- Chúng sinh sống và gây hại ở mặt dưới lá, cả ấu trùng và thành trùng nhện đỏ (nhện trưởng thành và nhện non) đều ăn biểu bì và chích hút mô dịch của lá cây khi lá bước vào giai đoạn bánh tẻ trở đi, làm cây bị mất màu xanh và có màu vàng, làm cho mặt trên của lá bị vàng loang lổ (những chấm trắng vàng rất rễ nhận ra trên mặt lá), còn ở mặt dưới lá có những vết trắng lấm tấm giống bụi cám, nhìn kỹ thấy trên đó có lớp tơ rất mỏng.

- Khi nhện hại nặng lá cây bị phồng rộp sau đó cằn lại, vàng, thô cứng và sau cùng lá sẽ bị khô đi. Màu vàng của lá dễ nhìn thấy nhất là ở mặt dưới lá, làm giảm phẩm chất và năng suất trái. Khi mật số cao, cả cành non cũng bị nhện đỏ tấn công, cành cũng trở nên khô và chết.

- Nhện đỏ gây hại làm cho trái bị vàng, sạm và nứt khi trái lớn. Hoa bị hại có thể bị thui, rụng. Nhện còn có thể tuyền bệnh virus cho cây.

- Nhện đỏ phát triển trong điều kiện mùa nắng, khô hạn và cây bón nhiều đạm. Do có vòng đời ngắn nên thường mật số tăng lên rất nhanh và gây hại nghiêm trọng.

- Chúng lan truyền nhờ gió và những sợi tơ, mạng của chúng.

- Nhện đỏ chủ yếu phá hại trên lá già và lá bánh tẻ. Giàn Nho cuối vụ thường bị hại nặng, bộ lá có thể bị hư rụi toàn bộ, ảnh hưởng đến năng suất vụ sau.

* Biện pháp xử lý: Dùng các loại thuốc sau để trừ: Abamectin: 40g/l, Emamectin benzoate (Avermectin B1a 90 % + Avermectin B1b 10%) : 26 g/l, Rotenone 2.5% + Saponin 2.5% : 50g/kg, Chitosan, Matrine (dịch chiết từ cây khổ sâm) : 10g/l, ... để phun phòng trừ.

1.3. Bọ trĩ: (Rhipiphorothrips cruentatus).

* Nhận dạng:

Bọ trĩ non và trưởng thành cơ thể rất giống nhau, đều thon nhọn phía sau, dài khoảng 01 mm, màu vàng hoặc vàng nâu, tập trung ở mặt dưới của lá, di chuyển nhanh. Trứng đẻ trong phần non của lá hoặc đọt non.

* Tập quán sinh sống và cách gây hại:

Cả trưởng thành và bọ trĩ non đều gây hại bằng cách cứa rách mô tế bào biểu bì và hút nhựa chảy ra, do đó sẽ khiến nho không xanh mướt mà có màu xỉn, lá nho phía dưới có màu ánh bạc còn phía trên lá cong mo lại. Nếu bọ trĩ gây hại ở chùm hoa thì hoa nhỏ, rụng do cuống hoa tổn thương làm tỷ lệ đậu trái thấp. Trường hợp bọ trĩ gây hại khi quả non thì trái nho trong chùm không đều, trên vỏ trái có các vết sần sùi làm xấu trái bán giá thấp. Bọ trĩ phát sinh và gây hại nặng trong điều kiện khô và nóng, triệu chứng cháy lá, rụng hoa càng xảy ra nhanh trong điều kiện trời nắng nóng.

* Biện pháp xử lý: Có thể sử dụng các loại thuốc như: Spinetoram, Abamectin: 50g/l, Emamectin benzoate Avermectin B1a 90 % + Avermectin B1b 10%, Emamectin benzoate………..50 g/kg,... để phun phòng trừ.

1.4. Rệp sáp: (Ferrisiana virgata).

* Nhận dạng:

Rệp tiết ra một lớp sáp che chở cho cơ  thể, lớp này hình thành nên một lớp vỏ cứng, có hình dạng, màu sắc và kích thước khác nhau hoặc lớp phấn trắng. Lớp vỏ của Rệp sáp có thể tách ra khỏi cơ thể một cách dễ dàng.

* Tập quán sinh sống và cách gây hại:

- Rệp sáp có chu kỳ sinh trưởng ngắn (dưới 1 tháng trong điều kiện nhiệt độ không khí cao liên tục), khả năng sinh sản cao, nếu điều kiện môi trường thích hợp sẽ có khả năng bộc phát nhanh.

- Cả ấu trùng và thành trùng cái chích hút lá, cành, trái, cuống trái. Nếu bị nhiễm nặng, lá bị vàng, rụng, cành bị khô và chết, trái cũng có thể bị biến màu, phát triển kém và bị rụng.

- Rệp sáp gây hại chủ yếu vào mùa nắng. Mật ngọt do rệp tiết ra còn hấp dẫn nấm bồ hóng phát triển làm ảnh hưởng đến sự quang hợp của cây. Nguy hại hơn, rệp làm cho chồi Nho bị co cúm lại, giảm khả năng ra hoa và  giảm chất lượng quả.

- Rệp phá hại hầu hết các bộ phận của cây, chúng bám vào cành ngọn non, lá và chùm quả để hút nhựa cây, hậu quả làm giảm sự sinh trưởng và phát triển của Nho. Thân rệp có phủ 0l lớp sáp như bông, vì vậy nông dân thường gọi là rầy bông.

* Biện pháp xử lý:

- Thường xuyên tỉa cành, tạo tán sẽ giúp hạn chế rệp sáp.

- Thường xuyên kiểm tra vườn để phát hiện và phun thuốc kịp thời, đặc biệt là giai đoạn cây đang có đọt non, lá non, bông, trái non. Nên phun trực tiếp vào chỗ có rệp đeo bám.

- Trước khi phun thuốc nên phun nước có pha xà bông để rửa trôi bớt lớp phấn sáp bên ngoài, để khi phun thuốc thì thuốc dễ tiếp xúc với cơ thể của rệp, hiệu quả diệt rệp của thuốc sẽ cao hơn. Cũng có thể dùng máy bơm nước có áp suất cao xịt mạnh tia nước vào chỗ có nhiều rệp để làm trôi bớt rệp.

- Dùng các loại thuốc như Pyrethrins, Fenobucarb 50% (w/w), Buprofezin 250g/l, Thiamethoxam,... để phun phòng trừ.

2. Bệnh hại

2.1. Mốc sương: (Downy mildew).

* Tác nhân gây bệnh: Bệnh do Plasmopara viticola gây ra.

* Triệu chứng:

- Nấm chủ yếu tấn công vào lá non và lá bánh tẻ.

- Triệu chứng đầu tiên là xuất hiện các vết màu vàng với kích thước và hình dạng không đồng đều, sau đó mọc lên các bào tử nấm màu trắng.

- Nấm còn tấn công cả vào hoa làm hoa bị tiêu hủy.

- Những quả bị bệnh nấm mốc sương gây ra có màu vàng hơi đỏ, bị chín ép và rụng mà ít được người trồng nho nhận thấy..

* Điều kiện phát sinh phát triển:

- Bệnh xuất hiện vào thời kỳ nho sinh trưởng mạnh về thân lá, gây hại nặng trong điều kiện thời tiết ẩm, mưa nhiều (như các tháng 9, 10, 11) và một số thời điểm có sương nhiều của vụ khô.

- Nấm có nguồn gốc từ lá bệnh trên cây và lá rụng, còn có trong mầm cây, nấm bệnh là dạng tồn tại qua mùa đông.

- Nấm tấn công các phần xanh của  cây, nhất là ở chùm hoa, lá và trái non. Khi bị bệnh nặng cây bị hư 1 phần lá hay rụng lá làm giảm sinh trưởng và phát triển, giảm năng suất và phẩm chất trái về sau. Chùm bông, chùm trái bị bệnh hóa nâu, sau đó khô héo rụng cục bộ hay toàn phần, trái phát triển èo uột.

* Biện pháp xử lý:

- Tiêu thoát nước vườn Nho khi bị đọng nước do mưa nhiều và làm tốt công tác vệ sinh đồng ruộng.

- Bón phân NPK đầy đủ và cân đối, tăng cường bón phân Kali và hạn chế sử dụng nhiều phân đạm hay phân bón lá vào các vụ có áp lực bệnh cao.

- Chỉ nên phun thuốc khi cần thiết, có thể dùng các loại thuốc như Fosetyl-aluminium, Iprovalicarb và Propineb, Copper hydroxide, Propamocarb. HCl (min 97 %),… để phun phòng trừ.

2.2. Bệnh Phấn trắng: (Powdery mildew).

* Tác nhân gây bệnh: Do nấm Uncinula necator gây hại.

* Triệu chứng:

- Nấm bệnh tấn công các phần xanh của cây như cành xanh, lá già, lá bánh tẻ và trái. Cả 2 mặt lá khi bị  nhiễm bệnh trở nên mất màu, có vết đốm sáng như giọt dầu, nhất là ở mặt trên lá, lá non bị biến dạng còi cọc.

- Trên quả có thể thấy rõ các vết màu trắng hơi xám của bào tử nấm, khi chùi lớp bào tử bên ngoài thì sẽ nhìn rõ vết bệnh màu trắng phía trong, cuống trái, chùm trái dòn dễ gãy.

- Bệnh nguy hiểm cho trái từ lúc quả còn non đến khi quả chín, làm biểu bì trái bị chết, khiến trái nứt về sau và dể thối khi chín do nấm Botrytis cinerea gây ra, những trái bệnh nhưng không bị nứt, khi chín sẽ mất màu hay màu không được sáng, hương vị và phẩm chất kém.

- Trên cành và lá thấy xuất hiện các đốm mốc màu xám tro, trên quả có thể thấy rõ các vết màu trắng hơi xám của bào tử nấm, khi chùi lớp bào tử bên ngoài đi lộ rõ vết bệnh màu xám tro ở phía trong.

- Bệnh đặc biệt nghiêm trọng cho giai đoạn quả từ khi đậu được 5-7 ngày cho tới khi chín.

* Điều kiện phát sinh phát triển:

- Nhiều nhất vào vụ Đông xuân có gió mùa Đông Bắc thổi mạnh, trời âm u, ánh sáng yếu và khuếch tán, ẩm độ 40-90%, nhiệt độ từ 20-270C là điều kiện thích hợp cho nấm phát triển.

- Trong điều kiện ở Ninh Thuận, nấm phát triển hầu như quanh năm, trừ các tháng mưa lớn. Những giàn nho thiếu ánh sáng thuận lợi cho sự phát sinh và lây lan của bệnh.

* Biện pháp xử lý:

- Duy trì mật độ cành hợp lý 8-10 cành/m2 để ruộng Nho có đầy đủ ánh sáng và  thông thoáng.

- Gom sạch và đốt cành lá bệnh sau khi cắt cành để phòng ngừa bào tử nấm lây lan.

- Bón phân NPK đầy đủ và cân đối, hạn chế dùng nhiều phân  đạm.

- Khi bị nặng thì dùng các loại thuốc như  lưu huỳnh vôi, các chế phẩm có chứa đồng, thuốc Chlorothalonil, Dimethomorph (min 98%), Eugenol, Ningnanmycin,... để phun phòng trừ.

2.3. Bệnh nấm cuống:

* Tác nhân gây bệnh: Bệnh do nấm Diplodia gây ra.

* Triệu chứng:

- Bệnh chủ yếu gây hại trên cuống trái, từ khi bắt đầu ra hoa đến khi trái lớn và chín. Bệnh hầu như không gây hại trên lá và trái như các bệnh sương mai, phấn trắng.

- Quan sát trên cuống chùm hoa hoặc cuống chùm trái sẽ thấy những vết màu nâu, lúc đầu hơi ướt, về sau làm khô teo một đoạn cuống, gây tắc mạch dẫn nước và dinh dưỡng.

- Tùy theo vết bệnh xuất hiện ở cuống lớn hay cuống nhánh, cuống nhỏ mà làm héo từng phần hay toàn bộ chùm hoa, chùm trái, làm giảm năng suất đáng kể.

- Ngoài ra, nấm bệnh còn tiếp tục phá hại cuống trái nho trong quá trình bảo quản và vận chuyển làm rụng và thối trái

* Điều kiện phát sinh phát triển:

Bệnh thường phát sinh vào những tháng mưa nhiều, thời tiết nóng ẩm, có nhiều sương hay lúc trời âm u. Nấm tấn công vào cây từ khi hoa mới ra đến khi sắp thu hoạch.

* Biện pháp xử lý:

- Sử dụng các loại giống sạch bệnh để đưa vào sản xuất.

- Đảm bảo mật độ trồng, khoảng cách trồng để đảm bảo độ thông thoáng.

- Bón phân, tỉa cành tạo tán và vệ sinh vườn thông thoáng để hạn chế nguồn nấm bệnh trên thực vật tồn dư có thể lây nhiễm trở lại trên cây.

- Khi cây bắt đầu nhú hoa cho đến khi trái lớn nên phun thuốc phòng trừ  nấm 2-3 lần/vụ. Các loại thuốc trừ nấm bệnh có hiệu quả cao là: Thio-M 70WP, Thio-M 500SC, Saizol 5SC, Copforce Blue 51WP, Bendazol 50WP. Sử dụng luân phiên các loại trên theo hướng dẫn trên bao bì.

2.4. Bệnh rỉ sắt:

* Tác nhân gây bệnh: Bệnh do nấm Uromyces vignae gây ra.

* Triệu chứng:

Nấm chủ yếu gây hại trên lá bánh tẻ và lá già, nấm bệnh màu vàng rỉ sắt.

* Điều kiện phát sinh phát triển:

Thường thấy nấm xuất hiện vào cuối vụ trong các tháng mưa nhiều, nấm có thể làm tàn lụi bộ lá trước khi cắt cành, việc giảm diện tích quang hợp sẽ ảnh hưởng đến năng suất vụ sau.

* Biện pháp xử lý: Dùng các loại thuốc như Hexaconazole, Hexaconazole 50g/ lít, Hexaconazole 5%,... để phun phòng trừ.

2.5. Bệnh thán thư: (Antharacnose-black spot).

* Tác nhân gây bệnh: Gồm nhiều loại khác nhau: Elsinoe ampelina (De Bary), Sphaceloma ampelinum (De Bary), Colletotrichum glocosporioides (Penz) gây ra.

* Triệu chứng:

- Trên lá: những lá non dễ nhiễm bệnh, đầu tiên là những đốm nhỏ màu nâu đậm, ở giữa màu xám nhạt, sau bị thủng. Khi bị nặng làm lá biến dạng.

- Trên chồi: Chồi non chồi mộng nước rất dễ nhiễm bệnh. Những vết bệnh nhỏ màu nâu sẽ lớn dần và phát triển thành oval màu tía, lõm xuống với những mép viền màu đen.

- Trên trái: Xuất hiện những vết nhỏ màu đen, thường ở giữa màu xám. Khi cuống trái bị nấm tấn công thì trái không thể phát triển được.

* Điều kiện phát sinh phát triển: Bệnh phát triển mạnh trong mùa mưa và khí hậu ẩm.

* Biện pháp xử lý:

- Cần chú trọng các biện pháp tổng hợp như vệ sinh đồng ruộng, dọn sạch tàn dư bị bệnh sau một mùa vụ nhất là các cành cây khô đã bị nhiễm bệnh, tránh bón quá nhiều đạm về cuối vụ, thoát nước vào mùa mưa thật tốt, mật độ cành hợp lý và tăng cường bón phân kali ở giai đoạn cuối để tăng đề kháng cho cây Nho.

- Phối hợp sử dụng thuốc BVTV với việc bao chùm trái Nho vào mùa mưa. Có thể dùng các loại thuốc như Eugenol : 12g/l, kasugamycin 2%, Streptomyces lydicus WYEC108 1% , Streptomyces lydicus WYEC 108 + Fe+ Humic acid,… để phun phòng trừ.

V. THU HOẠCH VÀ BẢO QUẢN

1. Thời điểm thu hoạch:

- Thu hoạch: vào sáng sớm hoặc chiều mát.

- Thời gian thu hoạch tùy thuộc vào giống và Thời vụ, cần thu hoạch đúng độ chín của trái, nghĩa là khi trái có đủ thời gian, màu sắc, độ ngọt và hương vị đúng với đặc trưng của giống.

2. Phân loại chùm quả:

- Sau khi thu hoạch tỉa bỏ trái nhỏ, bị bệnh, trái nứt.

- Phân loại dựa vào kích cỡ chùm, màu sắc quả, độ sạch bệnh theo yêu cầu khách hàng (chặt chùm hay thưa chùm).

3. Đóng gói bảo quản:

+  Xử lý chùm quả bằng cách ngâm trong dung dịch Anolyte từ 5-10 phút nhằm tẩy rửa vết bẩn và sâu bệnh bám trên vỏ quả, làm khô trước khi bỏ vào thùng.

+ Vận chuyển xa, Nho chất lượng cao nên đóng trong thùng xốp, carton có đục lổ 2 bên cạnh thùng (trọng lượng chứa 10 kg). Tốt nhất là vận chuyển bằng xe lạnh để làm mát có nhiệt độ từ 3-50C.

+ Vận chuyển gần có thể cho vào thùng carton (20-30 kg)./.

Chào Thân ái.

Tin xem nhiều

Tài liệu kỹ thuật chăn nuôi thỏ - Phần 5

Phần 5: KỸ THUẬT CHĂM SÓC, NUÔI DƯỠNG

I. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH SẢN Ở THỎ CÁI

1. ...

Kỹ thuật nuôi cá lăng vàng

Cá lăng vàng là một trong những loài cá lăng hiện diện ở các thủy vực nước ngọt và lợ ...

Quy trình sản xuất giống cá lăng vàng

1. Thuần dưỡng và nuôi vỗ bố mẹ

1.1 Thuần dưỡng cá làm bố mẹ

Nếu cá bố mẹ có nguồn ...

Kỹ thuật nuôi cá lăng nha thương phẩm

Lăng nha (Mystus wyckiioides) là loài cá nước ngọt, thịt trắng chắc, không xương dăm, mùi vị thơm ngon, giá ...

Kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá lăng chấm

Đặc điểm hình thái cá lăng chấm: Thân dài. Đầu dẹp bằng, thân và đuôi dẹp bên. Có 4 đôi ...

Video xem nhiều

Kỹ thuật bón phân

(Nguồn THVL)

Dưa hấu không hạt - nông nghiệp công nghệ cao

Lâu nay mọi người thường khó chịu khi gặp phải vô số hạt cứng trong ruột dưa hấu. ...